OMI VIỆT NAM::Chân Phước Giuse Gia-Hòa Bậc Đáng Kính Chân Phước Giuse Gia-Hòa Joseph Gerard sinh tại Bouxières-aux-Chênes (Meurthe-et-Moselle) ngày 12/3/1831. Cậu Joseph là con trưởng trong gia đình có 05 người con, cha là Jean Gérard và mẹ là Ursule Stofflet. Gia đình cậu rất khiêm tốn và có nếp sống đạo gương mẫu. Cậu cũng được hưởng phúc đức từ vị nữ tu Odile, dạy cho cậu về giáo lý và từ cha sở Cayens, người luôn khuyến khích cậu trong ơn gọi linh mục và truyền giáo. Năm 13 tuổi, cậu vào Tiểu chủng viện Pont-à-Mousson (1844-1849) và sau đó là Đại chủng viện tại Nancy (1849-1851). Trong cả hai nơi, cậu đều được các cha Hiến Sĩ đến rao giảng, giới thiệu về những điểm truyền giáo mới mở tại Tây-Bắc-Cực Canada. Những nhà truyền giáo này làm bùng cháy trí tưởng tượng nơi cậu và cậu đã xin chuyển từ Đại chủng viện sang nhà tập Dòng Hiến Sĩ tại N.D. de l’Osier, vào năm 1851. Vào cuối đời của cha, cha viết những lời rất cảm mến, Đức tổng giám mục Augustin Dontellwill, cha Bề trên tổng quyền, các vị giám tập kế nhiệm: cha Jacques Philippe và Gustave Richard; cha cũng nhắc đến cha Florent Vandenberghe, phụ tá giám tập trong thời gian ngắn. Thầy Joseph khấn đầu ngày 10/5/1852 và sau đó sang nhà Học viện tại Marseille: khi đó anh em Hiến Sĩ Học viện vẫn còn ở Đại chủng viện Marseille. Ngày 3/3/1853 thầy nhận bài sai đi Natal, Nam-Phi. Ngày 3/4/1853 thầy chịu chức phó tế bởi Đức giám mục Eugène de Mazenod. Chỉ một tháng sau, thầy theo cha Justin Baret và tu huynh Pierre Bernard, đi Natal, Nam-Phi. Ngày 10/5/1853, thuyền của họ rời cảng Toulon. Trên đường đi, họ ghé Mauritius vài tháng. Tại đây, thầy sáu Gérard đã gặp chân phước Jacques Désire Laval, người đã truyền cho thầy phương pháp dạy giáo lý rất khoa học mà thầy sẽ áp dụng sau này. Vào tháng 01/1854 họ đến Natal và được Đức giám mục Jean Francois Allard đón tiếp, ngài cũng là người đã nhận những anh em Hiến Sĩ tiên phong, đến đất nước này vào năm 1852. Thầy Gérard đi với cha Justin Baret đến Pietermaritzburg. Cha Baret là Hiến Sĩ đầu tiên tại Natal, và tại đây thầy Gérard được đức cha Allard phong chức linh mục ngày 19/2/1854. Sau đó, hai cha Gérard và Baret bắt đầu học anh văn và làm việc cho những người chiếm đóng (đất nước Nam Phi). Sau một thời gian, họ đến học ngôn ngữ với người Zulu. Năm 1855, anh em thành lập sứ vụ Hiến Sĩ đầu tiên tại Zulu, và đặt tên là Sứ vụ Mi-ca-e, gần Umzinto, trong phần đất do thủ lãnh Dumisa cấp cho. Bộ tộc Zulu Cha Joseph Gérard luôn đáp ứng đòi hỏi của giám mục Mai Thiên Lộc, rằng anh em Hiến Sĩ truyền giáo phải thường xuyên cho ngài thông tin về cuộc sống và công việc họ làm. Cha Gérard viết cho cha Sáng lập từ Pietermaritzburg, từ cộng đoàn thánh Mi-ca-e và từ cộng đoàn “Bảy sự thương khó Đức Mẹ” (thành lập sau khi sứ vụ thánh Mi-ca-e không thành công). Cha tường trình chi tiết những tiến triển và những khó khăn, ngăn trở trong sứ vụ này. Sau ba lần cố gắng thành lập vùng truyền giáo nơi thổ dân Zulu không thành công, Đức cha Allard và cha Gérard chấp nhận thất bại và để đáp lời hối thúc của đức cha Mai Thiên Lộc, 08 tháng trước khi ngài qua đời, các ngài vượt qua rặng núi Dragenberg để vào lãnh thổ Lesotho, cũng gọi là Basutholand. Các ngài đến gặp vua Moshoeshoe và ông cho các ngài một vùng đất, sẽ gọi là Roma. Cha Gérard làm việc 14 năm tại đây và lập nên Giáo hội trong vùng đất chưa bao giờ có các nhà truyền giáo công giáo. Kinh nghiệm từ thất bại chua cay tại Natal, cha không cho phép mình còn kiên nhẫn chờ người ta hoán cải nữa. Cha đặt cho mình một chương trình đền tội bằng cách đi ngựa không biết mệt mỏi, qua các vùng núi non hiểm trở để thăm nhà dân, chăm sóc người yếu đau, dâng lễ và ban các bí tích. Cha chứng tỏ mình là một nhà truyền giáo thực sự, cách đặc biệt trong cuộc chiến giữa Basotho và Boer (1865-1866) khi cha liều mạng sống để giúp đỡ nhà vua Moshoeshoe cố thủ trong pháo đài tại núi Thaba Bosiu. Cha cũng thúc đẩy ơn gọi bản địa vào lúc mà xem như không khả thi chút nào. Cha là một thí dụ điển hình trong đời thánh hiến, qua đời sống cầu nguyện, hãm mình và làm việc cật lực, làm mọi người phải cảm phục và kính trọng. Năm 1876, cha trở về Pietermarizburg, Natal, để lo việc in hai quyển sách cha thực hiện tại Lesotho. Quyển thứ nhất là bản dịch Tin Mừng theo thánh Lu-ca, quyển kia là lịch sử Giáo hội tóm gọn. Sau đó, cha nhận sứ vụ mới tại Leribe, phía bắc Lesotho. Cha dâng sứ vụ nầy cho thánh Monica, một trong những vị thánh mà cha ngưỡng mộ cách đặc biệt. Tại đây cha làm việc tất cả là 21 năm, và cũng như khi ở Roma, cha lo việc giáo lý, phụng vụ và mục vụ. Tại cộng đoàn thánh Monica cũng vậy, cha luôn gặp những khó khăn bủa vây : lễ nghi ngoại giáo, tục đa thê, thầy pháp, hiểu lầm và bôi nhọ, cha cũng phải đối đầu ngay cả với những chỉ trích của vài anh em Hiến Sĩ. Năm 1897, cha được 66 tuổi, trở về Roma và trong 17 năm tiếp theo, cha vẫn làm việc như một Hiến Sĩ truyền giáo trẻ trung của 35 năm về trước. Vào tuổi 83, cha vẫn còn ngồi trên yên con ngựa Artaban huyền thoại của cha. Cha Gérard có lúc rất quan tâm việc ai sẽ là Hiến Sĩ phụ trách cộng đoàn tại Lesotho. Cha yên tâm khi cha Jules Cenez, đồng hương với ngài tại Loraine, được chọn làm Bề trên Sứ Vụ. Cha Martin Guilcher, Bề trên của cha Gérard, đến thăm ngài vào chiều thứ sáu 29/5/1914: ngài xức dầu cho cha Gérard , khi đó còn tỉnh, đã làm dấu thánh giá, cử chỉ tôn kính cuối cùng với Thánh giá đã soi dẫn ngài trong suốt cuộc đời dương thế. Thánh giá Hiến Sĩ của cha Gérard để lại là kho tàng cho anh em Hiến Sĩ tại Lesotho. Cha Gérard theo sát chân Chúa Giê-su, Người Tôi tớ đau khổ của Yahweh. Những bài ca về Người tôi tớ trong sách Isaia phản ảnh đúng đời sống của cha. Cuộc đời cha cũng như Người tôi tớ, được nâng cao, tôn vinh, và có những lúc ngập tràn niềm vui và rạng sáng trong đời cha. Nhưng niềm vui và ánh sáng của cha đến từ những đau khổ của người đã có những thất bại ê chề. Do tính tự kỷ và rụt rè của mình, nhiều khi cha bị xem thường: khi những cơn sóng trầm cảm bao phủ cha, cha giống như thánh Phao-lô, cực kỳ khó khăn về mọi mặt, luôn đứng giữa những khó khăn thể xác và đớn đau tâm hồn. Có lần cha bị một nhóm trẻ ngang bướng xúc phạm cha là một sinh vật già không nơi nương tựa, khi cha đang cởi con ngựa Artaban. Những từ xúc phạm này gợi nhớ lại Người tôi tớ bị khinh thường và loại bỏ bởi mọi người. Thời điểm tôn vinh cha rơi đúng vào ngày lễ Đức Mẹ sầu bi, ngày 15/9/1988, khi ĐGH Gioan Phaolo 2 phong cha lên bậc chân phước tại Maseru, Lesotho. Ít nhất ba lần, ĐGH đã công khai nhắc đến tình yêu muôn thuở của cha với Thánh giá Chúa và Mẹ Maria, người phụ nữ đứng dưới chân Thánh giá: các Ngài là suối nước hằng sống luôn nâng đỡ cha trong cuộc lữ hành, suối nguồn lòng nhiệt thành của cha, nguồn cảm hứng công việc trong đời cha. Trong thánh lễ phong Chân Phước cho cha Gérard, ngày 15/9/1988, ĐGH Gioan Phaolo II đã giảng: “Từ khi còn nhỏ, Joseph Gérard đã được thuyết phục rằng Thiên Chúa gọi ngài để trở nên một nhà truyền giáo. Trái tim ngài tràn ngập lòng biết ơn vì món quà sống đời Kitô hữu, và ngài ao ước chia sẻ với những người khác kho tàng này, viên ngọc vô giá này, sự giàu có vô hạn của việc biết Chúa Giê-su Kitô. Và lòng nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng không mỏi mệt đã định hình cho mọi giai đoạn của cuộc đời ngài.” Khi ngài đến Lesotho cùng với Đức Giám mục Allard và Tu huynh Bernard, ngài đã tập trung vào việc học ngôn ngữ và phong tục của người dân Basotho. Ngài cố gắng hiểu cách suy nghĩ của họ, sự nhạy cảm của họ, hy vọng và mong muốn của họ. Ngài rất háo hức muốn hiểu linh hồn của họ, để ngài có thể quyết định dùng những phương pháp tốt nhất trong việc rao giảng cho họ Tin Mừng của Đấng Cứu thế. Đi bất cứ nơi nào để rao giảng, cha Gérard luôn sống ơn gọi truyền giáo của mình với lòng nhiệt thành tông đồ phi thường. Tình yêu của Ngài dành cho Thiên Chúa, bừng cháy trong trái tim ngài, được thể hiện qua tình yêu ngài dành cho mọi người đến với ngài. Trên tất cả, cha được nhớ đến vì sự chăm sóc đặc biệt của cha đối với người bệnh và đau khổ. Qua những chuyến viếng thăm thường xuyên và thái độ dịu dàng của cha, cha luôn mang đến cho họ sự can đảm và hy vọng mới mẻ. Đối với những người gần giờ chết, cha đã tìm ra những từ thích hợp để chuẩn bị cho họ gặp gỡ Thiên Chúa trong an bình, mặt đối mặt. Bí quyết về sự thánh thiện của ngài, chìa khóa cho niềm vui và lòng nhiệt thành của ngài, đơn giản là ngài đã luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Hạnh phúc của cha Gérard là suốt cuộc sống luôn kết hiệp vào tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Mọi người muốn ở gần Cha Gérard vì thấy ngài dường như luôn ở gần với Thiên Chúa. Ngài là con người của cầu nguyện, được nuôi dưỡng hằng ngày bằng các Giờ kinh Phụng vụ và thường xuyên chầu Thánh Thể. Ngài có lòng sùng kính nhiệt thành với Mẹ Thiên Chúa và các Thánh. Trong những chuyến hành trình dài và khó khăn của mình, đến những sứ vụ xa xôi và đến với những người bệnh, ngài đã trò chuyện liên tục với Thầy yêu quý của mình. Chắc chắn đây là cảm giác sống động của sự hiện diện của Thiên Chúa trong ngài, giải thích sự trung thành suốt đời của ngài để sống các Lời khuyên Phúc Âm về sự khiết tịnh, nghèo khổ, vâng phục và các nghĩa vụ của một linh mục như ngài. Lạy Chân phước Giu-se Gia Hòa, xin cầu cùng Chúa cho chúng con. Qua Mẹ Maria Vô Nhiễm rất thánh, xin dẫn đưa chúng con đến với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen. Trích từ omiworld.org Ngày 29 tháng 08 Năm 2020 Gửi bài viết cho người thân / bạn Tên người gửi Email người gửi Tên người nhận Email người nhận Tiêu đề Email Gửi Bài liên quan Các Chân phước Tử Đạo tại Lào của Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm - Lễ nhớ: 16 tháng 12 Chiêm Ngắm Vẻ Đẹp Tử Đạo Nhân Ngày Lễ Kính Nhớ Các Chân Phước Tử Đạo Tại LÀO (12/2016-12/2020)