Tin Mừng Lc 24,46-53
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
“Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”.
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Suy niệm:
Cùng ở lại trong thành
Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa không muốn xa thầy. Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên”. Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy”. Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông ?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi !”
Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên. Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo. Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh ?” Ông Êlisa nói: “Xin cho con được hai phần thần khí của thầy !” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được”. Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra. Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi ! Cha ơi ! Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”. (Cv 1, 9)
Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ. Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa. Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.
Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24, 50-53)
Chứng nhân và Đi gieo
Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.
Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.
Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.
Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng. Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.
Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)
Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân. Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội. Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.
Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Bình an và Vui mừng
Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.
Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.
Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.
Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu,, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.
Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?
Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)
Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. (Đường Hy Vọng, số 611)
Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.
Lm Alphonse Marie Trần Bình An
Có những trang mạng mở lối vào đức tin
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai ? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai ? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Gióp, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả”. (Tv 47, 2-3, 6-9)
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: “Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa”. Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong “nền văn hoá mới này” do những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.
Tiếp nối định hướng đó, Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47, ĐGH Bênêđictô viết sứ điệp truyền thông với chủ đề “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”. Lời mở đầu, ngài viết: “Tôi muốn xem xét việc phát triển các mạng xã hội kỹ thuật số đang góp phần rõ ràng tạo nên một “agora” (quảng trường) mới, một không gian công cộng mở, nơi đó con người chia sẻ các ý tưởng, thông tin, ý kiến, và cũng là nơi phát sinh những mối tương quan và hình thái cộng đồng mới”. Đức Thánh Cha nhận định tính tích cực của các trang mạng xã hội: “Các mạng xã hội, ngoài việc là một phương tiện loan báo Tin Mừng, còn có thể là một yếu tố phát triển con người. Chẳng hạn, trong một số bối cảnh địa lý và văn hóa mà các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng xã hội có thể giúp họ cảm thấy vẫn hiệp nhất thực sự với cộng đoàn Kitô hữu khắp thế giới. Những trang mạng tạo thuận lợi cho việc chia sẻ các nguồn tài liệu đạo đức và phụng vụ, giúp con người có thể cầu nguyện với cảm giác thấy mình gần gũi với những người cùng một niềm Tin”.
Có nhiều trang mạng dẫn lối vào Đức Tin: “Trong thế giới kỹ thuật số, có những trang mạng xã hội mang lại cho con người ngày nay những dịp để cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Những trang mạng này cũng có thể mở những cánh cửa dẫn vào những chiều kích khác của đức Tin. Quả thật, nhờ gặp gỡ trước trên mạng, nhiều người đã khám phá tầm quan trọng của việc gặp gỡ trực tiếp, những kinh nghiệm của cộng đoàn, và cả việc hành hương, là những yếu tố luôn luôn quan trọng trong hành trình đức Tin. Bằng cách cố gắng đưa Phúc âm hiện diện trong thế giới kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người cùng cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi chốn cụ thể như nhà thờ, nhà nguyện. Trong bất cứ hiện thực nào của cuộc sống mà chúng ta được mời gọi tham dự, dù đó là không gian vật lý hữu hình hay trong thế giới kỹ thuật số, không được thiếu đi sự gắn bó và hiệp nhất khi diễn tả đức Tin và làm chứng cho Tin Mừng. Khi gặp gỡ tha nhân, chúng ta đều được kêu gọi bằng mọi cách phải làm cho tình yêu Thiên Chúa được nhận biết đến tận cùng trái đất”.
Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà ? Đây là câu trả lời đích xác: “Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á”. (x.Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).
Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: “Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn”. (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: “Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội,thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An