OMI VIỆT NAM::Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên Chúa Nhật Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin Mừng Mc 16,15-20 Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô. Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng. Suy niệm: Vì yêu thương nhân loại, Đức Giê-su không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Chính vì thế, trong những năm hoạt động công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su dành mọi thời gian chăm lo cho đời sống thiêng liêng của họ, hướng dẫn họ sống theo đường lối của Đức Chúa, để họ được sống và sống dồi dào. Nhưng Ngài cũng biết rất rõ sự kém tin, sự chai đá cứng lòng và hay thay đổi của con người. Lịch sử dân tộc Israel cho thấy rất rõ điều đó. Một dân tộc Chúa đã chọn làm dân riêng, đã ký kết giao ước với họ, đã chúc phúc cho họ. Vậy mà họ vẫn bất trung, vẫn thay đổi lời đã hứa với Đức Chúa. Họ đã không trung thành với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, Đấng đã giải thoát họ ra khỏi Ai-cập. Họ đã thờ ngẫu tượng (bò vàng). Còn dân của giao ước mới thì sao? Đức tin của họ cũng chẳng hơn gì. Ngay khi Chúa còn hiện diện với họ, mà họ đã tỏ ra là những người thiếu niềm tin, nhát đảm và chỉ nghĩ đến lợi lộc trần thế. Chính vì vậy, trước khi về trời, Chúa Giê-su đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ, còn ai không tin thì sẽ bị kết án (Mc 16, 15-16). Việc Chúa Giê-su hiện ra với nhóm mười một, và sai các ông đi loan báo Tin Mừng cho thấy, Chúa luôn lo lắng cho hạnh phúc đời đời của con người. Khi Chúa thấy họ kém tin và hay thay đổi, Chúa càng lo lắng hơn. Chúa muốn làm tất cả để cứu giúp họ, Chúa cần họ có một niềm tin mạnh mẽ. Vì vậy, hôm nay Chúa ưu ái trao ban phương tiện đặc biệt cho các Tông Đồ: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (MC 16, 17-18). Những điều mà xưa nay con người luôn sợ hãi, như ma quỷ, hoặc những “kẻ thù” có thể cướp đi sinh mạng con người, như rắn độc, thuốc độc hay bệnh tật, thì hôm nay họ thấy rằng các Tông Đồ chỉ cần nhân danh Đức Giê-su, những sức mạnh đó sẽ phải khuất phục. Những dấu lạ kèm theo lời giảng dậy của các Tông Đồ chính là cách Chúa tỏ mình ra cho dân, để qua đó đức tin của họ được củng cố. Những phép lạ mà Chúa Giê-su ban cho các tông đồ vừa có nghĩa: Chúa sẽ giúp họ chiến thắng các thế lực của sự dữ, vừa củng cố đức tin cho chính các ông, để các ông thực sự làm được những dấu lạ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rằng, những dấu lạ này không hẳn là những phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống của những nhà truyền giáo. Cách sống nhiệt thành, trong sáng, bác ái, quảng đại có sức thu hút mọi người. Việc loan báo Tin Mừng nhằm hai mục đích: 1. Nhằm Rửa tội cho người ta trở thành ki-tô hữu. 2. Phổ biến những giá trị của Tin Mừng cho mọi người. Có những người vì lý do này, lý do khác mà không lãnh nhận bí tích Rửa tội được, nên họ không trở thành Ki-tô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị Tin Mừng, thì họ cũng là những ki-tô hữu vô danh. Chúng ta cần giúp cho nhiều người trở thành Ki-tô hữu chính danh, vừa có thêm những ki-tô hữu vô danh. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Việc loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay vẫn luôn là điều cần thiết. Cách riêng tại Việt Nam chúng ta, số người Công giáo so với dân số cả nước còn rất thấp. Theo Đức Cha Đinh Đức Đạo, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên tờ báo điện tử vaticaninsider.lastampa.it về kết quả truyền giáo tại Việt Nam, đã cho biết như sau: - Năm 1960 số tín hữu Công giáo là 2,43 triệu người, số dân cả nước là 35 triệu người. Tỷ lệ người Công giáo trên dân số cả nước là 7%. Bốn mươi năm sau: - Năm 2000, có 5,2 triệu người Công giáo, số dân cả nước là 77 triệu người, người Công giáo chiếm 6,75%. - Năm 2014, có 6,6 triệu người Công giáo, số dân cả nước là 95,2 triệu người, tỷ lệ người Công giáo là 7%. Cha An-tôn Nguyễn Ngọc Sơn cho biết, theo thống kê của Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở, được công bố tại Hà Nội ngày 19 tháng 12 năm 2019 cho thấy dân số Việt Nam thời điểm đó là 96,2 triệu người, có 16 tôn giáo được phép hoạt động, với 13,2 triệu tín đồ, chiếm 13,7% tổng số dân cả nước. Trong đó số người theo Công giáo là đông nhất với 5,9 triệu người, chiếm 6,1% dân số. Tỷ lệ dân số Công giáo sút giảm từ 6,61% năm 2009 xuống còn 6,1% năm 2019. Như vậy, dựa theo những con số trên đây thì kết quả của việc truyền giáo tại Việt Nam từ khi thiết lập hàng giáo phẩm cho đến nay dường như giậm chân tại chỗ, và có thể nói là còn thụt lùi. Trong khi đó, năm nào cũng có phong chức, biết bao Tân Linh Mục “ra trường”, biết bao người trẻ dấn thân tận hiến tu trì trong các Nhà Dòng. Năm 2014 số linh mục cả nước là 4.635 (3.546 linh mục Giáo phận và 1.089 linh mục Dòng), số chủng sinh là 2.357, số tiền chủng sinh là 2.389, số tu sĩ là 19,717 (2.834 nam tu và 16.883 nữ tu); số giáo lý viên cả nước là 59.448 người; Tổng số các nhân sự gắn liền với việc truyền giáo là 88.546 người. Số người tân tòng gia nhập đạo năm 2014 là 41.395 người. So sánh hai con số 88.546 và 41,395, ta thấy cứ 02 tín hữu ưu tuyển chưa đem được 01 người vào Đạo. Đó là chưa kể đến con số rất lớn các hội viên, hội đoàn công giáo tiến hành trong cả nước. Cánh đồng truyền giáo còn rất mênh mông, lời mời gọi của Chúa Giê-su “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” vẫn luôn vang vọng. Dẫu biết còn rất nhiều khó khăn, chủ quan cũng như khách quan. Nhưng chúng ta cần xác tín vào lời Chúa hứa: “Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta, và củng cố lời giảng dậy bằng những phép lạ kèm theo”. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta, hãy để Thần Khí của Ngài dậy ta biết phải làm gì. Điều quan trọng là chúng ta hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Lm Giu-se Ngô Xuân Hiến, OMI. Chúa Thăng Thiên Bốn mươi ngày sau Chúa Phục Sinh là ngày thứ năm sau Chúa Nhật thứ sáu Phục Sinh. Như vậy lễ Chúa Thăng Thiên đúng ra đã được cử hành vào ngày thứ năm vừa qua, nhưng ở một số nơi lễ này được dời vào Chúa Nhật để tín hữu có dịp tham dự và hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. 1. Khỏi bốn mươi ngày Ngài Lên Trời Truyền thống Giáo Hội vẫn cử hành lễ Chúa Lên Trời bốn mươi ngày sau lễ Chúa Phục Sinh. Truyền thống này theo sát trình thuật sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa…. Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv.1, 3.9). Bốn mươi ngày, là thời gian các Tông đồ còn có thể nhìn thấy Đức Giêsu, có thể cùng ăn cùng uống với Ngài, còn được Ngài dạy bảo như những ngày nào. Trong thời điểm ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, các Tông đồ cũng vẫn còn u mê, vẫn còn tưởng Ngài sẽ khôi phục nước Israel theo nghĩa phàm trần. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kiên trì dạy dỗ những người học trò như thể “chậm hiểu” đối với con người ngày nay, nhưng thật sự những gì Đức Giêsu đề cập rất khó hiểu vì các tông đồ đâu có những khái niệm trước như những tín hữu hôm nay đã được nghe đi nghe lại nhiều lần. Đức Giêsu “lên trời” ngay trước mắt các tông đồ (Cv. 1,9). Điều này đã xảy ra tại vườn dầu (Cv. 1,12). Bao nhiều lần Đức Giêsu hiện ra cho các Tông đồ, và rồi Ngài lại biến đi trước mắt các ông. Những lần đó không có sách nào nói Ngài lên trời cả, chỉ coi Ngài hiện ra và Ngài lại đi thôi, và rồi Ngài sẽ lại thăm viếng các tông đồ khi các tông đồ cần và Ngài muốn. Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay diễn tả rất cụ thể và rõ ràng về biến cố Đức Giêsu lên trời. 2. Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Mátthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23). Nếu Đức Giêsu là Đấng qua Ngài, Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Đức Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Tin Mừng theo thánh Mátthêu cũng cho thấy Đức Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Gioan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Đức Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Đức Giêsu. Ý niệm Đức Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Đức Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không. 3. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Một số người khi đọc tới đây có thể đã nói: “Kinh Thánh mâu thuẫn; như vậy biết tin thế nào đây, một đàng nói lên trời một đàng nói vẫn ở dưới thế”! “Phải chăng Kinh Thánh không đáng tin”. Thật sự trong Kinh Thánh có nhiều điều bị người ta nói “không lô-gích và phản khoa học”, chẳng hạn trong Sáng Thế Ký nói “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St. 2, 7). Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng làm gì có tay mà nặn, làm gì có hơi thở mà thổi hơi vào hình đất đó. Khoa học cho thấy con người hình thành qua tiến trình tiến hóa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Ngài ở khắp mọi nơi. Không có gì hiện hữu ngoài Ngài. Ma quỷ cũng luôn hiện diện trước Ngài, không thể tránh được Ngài. Nếu ai thù hận ghen ghét Ngài, thì sẽ muôn đời khổ vì không thể trốn đâu được với Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên không có tay phải tay trái, không có bên phải bên trái. Những cách diễn tả như vậy, đó là cách diễn tả “nhân hình” về Thiên Chúa. Khi người ta nói “Thiên Chúa ở trên trời”, thì không có nghĩa Thiên Chúa ở trên trời thăm thẳm mà không ở dưới đất này, nhưng có nghĩa, Thiên Chúa là Đấng cao vời siêu việt, vượt quá sức hiểu và tưởng tượng của con người. Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên con người như trời cao hơn đất: Thiên Chúa ngự trên trời. Như vậy khi một số tác giả diễn tả Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, không theo nghĩa đen hoàn toàn như vậy, nhưng phải hiểu là Đức Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giêsu: là người mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa: phạm thượng (Mc.14, 62-64). Khi nói Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng không có nghĩa rằng Đức Giêsu ở xa con người, rời bỏ con người, nhưng có nghĩa, Ngài được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa làm người. Câu hỏi gợi ý chia sẻ 1. Đức Giêsu nói: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Bạn có thấy câu này mâu thuẫn với khẳng định “Chúa Lên Trời” không? Tại sao bạn nói mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn? 2. Trong Kinh Thánh, những chỗ nào đề cập đến việc “Chúa lên trời”? Theo ý bạn, “lên trời” trong từ ngữ “Chúa Lên Trời” phải được hiểu như thế nào? 3. Ở đâu trong Kinh Thánh dùng từ ngữ “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”? Theo bạn, từ ngữ “ngự bên hữu Thiên Chúa” phải được hiểu như thế nào, vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có bên phải bên trái? Lm Giuse Phạm Thanh Liêm Nguồn: gplongxuyen.org Ngày 16 tháng 05 Năm 2021 Gửi bài viết cho người thân / bạn Tên người gửi Email người gửi Tên người nhận Email người nhận Tiêu đề Email Gửi Bài liên quan Chúa Nhật IV – Phục Sinh Chúa Nhật III – Phục Sinh Chúa Nhật II – Phục Sinh Chúa Nhật Phục Sinh Thứ Bảy – Vọng Phục Sinh Chúa Nhật Lễ Lá Chúa Nhật V– Mùa Chay Chúa Nhật IV– Mùa Chay Chúa Nhật III – Mùa Chay Chúa Nhật II – Mùa Chay