OMI VIỆT NAM::Chúa Nhật IV– Mùa Chay Chúa Nhật Chúa Nhật IV– Mùa Chay Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Tin Mừng Ga 3,14-21 Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” Suy niệm: Chúa nhật IV Mùa Chay như được ví von là Chúa Nhật hồng giữa Mùa tím, vì các bản văn phụng vụ giúp chúng ta nhận biết: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT 1. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết là Đấng giàu lòng thương xót Bài đọc I (2 Sb 36, 14-16.19-23), là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai, cho chúng ta biết về những nguyên nhân sâu xa của tai họa xảy đến với Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên: đạo quân Ba-by-lon xâm lăng Giê-ru-sa-lem và thiêu hủy Đền Thờ, kinh thành bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá. Nguyên nhân xảy ra thảm trạng trên là do lối sống vô luân, vô đạo: dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”. “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ” (Điển hình như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en). Tuy nhiên, dù dân Chúa bất trung bất nghĩa, nhưng Thiên Chúa vẫn xót thương, tha thứ cho họ. Sau bảy mươi năm lưu đày, Thiên Chúa đã khiến cho vua Ba-tư là Ky-rô tuyên bố cho dân Do Thái trở về tái thiết đất nước, “xây một đền thờ kính Đức Chúa tại Giê-ru-sa-lem”. 2. Thời Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải Ngài là tình yêu * Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). * Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phảiđể lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3, 17) * Đức Giêsu Kitô là hiện thân của Tình Yêu nhập thể. Ngài yêu con người một cách “điên rồ” Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 21-23). Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2, 6-8). Đức Giêsu Kitô đã chết trần trụi trên thập giá vì con người, và sống lại cũng để ban cho con người ơn cứu độ, Như Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). “Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản ánh: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa”(Ga 3, 18-19). Việc xấu xa là những việc như: tham tiền, tham danh, tham dục, ghen ghét, đố kỵ, nghi ngờ, nói xấu, lên án người khác... 3. “Ai tin vào Chúa Giê-su thì được sống muôn đời” (Ga 3, 15) Câu trên ứng nghiệm với lời đã được tiên báo trong sách Dân Số: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21, 8). Trong sa mạc xưa kia, điều kiện để dân Do Thái được chữa khỏi nọc độc của rắn là họ phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc. Không phải con rắn đồng cứu dân khỏi thảm họa rắn cắn, nhưng chính vì tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ bằng việc nhìn lên con rắn đồng được treo lên. Con rắn đồng được treo lên là dấu chỉ của tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Nay, điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên cây Thập Giá của Đức Giêsu Kitô và tin vào Ngài. Thập giá Chúa Giêsu bộc lộ trọn vẹn tình yêu và quyền năng tái sinh của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Qua Bài đọc II (Ep 2, 4-10 ), Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta về cùng đích của thân phận người Kitô hữu: chúng ta sẽ “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, …chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” . Ôi Tình Yêu nhiệm mầu! Thụ tạo trở thành con Thiên Chúa, tội nhân thành thánh nhân khi họ tin Chúa Giêsu chết và sống lại vì mình. Họ được tha tội và được tháp nhập nên một Thiên Chúa Tình Yêu. Câu chuyện: Cây Thánh Giá Tha Tội Trong một ngôi nhà thờ bên trong tu viện St. Ann & St. Joseph ở Cordoba, Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”. Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương cứu độ và giải thoát chúng con khỏi ách nô lệ của tội lỗi, ma quỷ và sự chết. Xin cho chúng con khi nỗ lực sống Tin Mừng Tình Yêu, được trở nên những món quà trao ban cho anh chị em chung quanh bằng đời sống yêu thương quảng đại của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. Lm Giuse Đinh Kim Chí, OMI. Ngày 07 tháng 03 Năm 2024 Gửi bài viết cho người thân / bạn Tên người gửi Email người gửi Tên người nhận Email người nhận Tiêu đề Email Gửi Bài liên quan Chúa Nhật V – Phục Sinh Chúa Nhật IV – Phục Sinh Chúa Nhật III – Phục Sinh Chúa Nhật II – Phục Sinh Chúa Nhật Phục Sinh Thứ Bảy – Vọng Phục Sinh Chúa Nhật Lễ Lá Chúa Nhật V– Mùa Chay Chúa Nhật III – Mùa Chay Chúa Nhật II – Mùa Chay